
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Phạm Bình Minh.
Đã một phần tư thế kỷ trôi qua kể từ khi Tổng
thống Hoa Kỳ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt chính thức tuyên bố
bình thường hóa, thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
(12/7/1995-12/7/2020). Vượt qua chập chững ban đầu, với nỗ lực không biết mệt mỏi
của hai quốc gia, hai dân tộc, sau một phần tư thế kỷ, Việt Nam và Hoa Kỳ đã trở
thành bạn bè, Đối tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, với triển vọng rộng mở
hợp tác trong thời gian tới.
Kỷ niệm 25 năm cột mốc lịch sử trong quan
hệ Việt Nam-Hoa Kỳ là dịp để hai bên nhìn lại chặng đường đã qua, những gì đang
diễn ra và sắp tới, để cùng nhau phát triển quan hệ tương xứng với tiềm năng vốn
có, phù hợp với lợi ích và mong muốn của hai quốc gia, hai dân tộc.
Củng cố lòng tin, nền tảng quan hệ
Lòng tin luôn là nền tảng vững chắc của mọi
mối quan hệ, dù đó là giữa cá nhân, tập thể, quốc gia hay giữa các dân tộc.
Lòng tin được tạo dựng, nuôi dưỡng và vun đắp thông qua hành động thiết thực, bắt
nguồn từ thiện chí và sự chân thành. Thực tế mối quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ cũng
minh chứng cho điều đó. Giữa hai quốc gia, từng là “cựu thù”, yếu tố lòng tin lại
càng quan trọng. Trên thực tế, những viên gạch đầu tiên xây dựng lòng tin giữa
hai bên đến từ hoạt động hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh.
Ngay sau khi ký kết Hiệp định Paris năm
1973, Việt Nam đã đơn phương tổ chức các nhóm tìm kiếm, khai quật và trao trả
hơn 300 hài cốt cho Hoa Kỳ. Hàng nghìn người dân Việt Nam, dù chưa tìm được hài
cốt con em đã hy sinh trong chiến tranh, song vẫn tình nguyện tham gia tìm kiếm
phần còn lại của những người bên kia chiến tuyến. Chính nỗ lực lớn của Chính phủ
Việt Nam, tinh thần hòa hiếu, sẵn sàng gác lại quá khứ của người dân Việt Nam
đã tác động đến suy nghĩ, nhận thức chủ đạo trong nội bộ Hoa Kỳ về hàn gắn vết
thương chiến tranh. Hiện hai nước đã hồi hương hơn 1.000 bộ hài cốt quân nhân
Hoa Kỳ và nhận dạng hơn 800 trường hợp mất tích.
Về phần mình, Hoa Kỳ đã cung cấp thông tin
và hồ sơ liên quan đến các trường hợp bộ đội Việt Nam hi sinh trong chiến
tranh, giúp Việt Nam tìm kiếm và quy tập gần 1.500 hài cốt liệt sỹ. Chính phủ
Hoa Kỳ liên tục tăng ngân sách phục vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, hoàn
thành chương trình hỗ trợ tẩy độc sân bay Đà Nẵng (2018) và đang khởi động dự
án tẩy độc sân bay Biên Hòa, hỗ trợ hơn 125 triệu USD để chăm sóc sức khỏe cho
khoảng 1 triệu người khuyết tật ở Việt Nam và tài trợ 130 triệu USD cho các dự
án về khắc phục hậu quả bom mìn, vật liệu nổ còn sót lại. Việt Nam ghi nhận nỗ
lực của Hoa Kỳ trong thực hiện trách nhiệm đạo lý khắc phục hậu quả chiến
tranh.
Bên cạnh đó, ngoại giao nhân dân và hợp
tác giáo dục cũng đóng vai trò quan trọng trong xây dựng lòng tin hai nước, nhất
là trong những năm tháng đầu tiên của quá trình bình thường hóa quan hệ. TP. Hồ
Chí Minh và San Francisco (California) đã ký thỏa thuận kết nghĩa ba tháng trước
khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ. Tương tự, hợp tác giáo dục Việt Nam
– Hoa Kỳ, nổi bật là Chương trình Fulbright được triển khai từ năm 1992, đã hỗ
trợ hơn 500 người Hoa Kỳ và gần 700 người Việt Nam học tập, nghiên cứu và giảng
dạy. Lòng tin, khi được gây dựng và củng cố đã tạo tiền đề quan trọng để Việt
Nam – Hoa Kỳ hòa giải, bình thường hóa và thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày
12/7/1995.
Gác lại quá khứ, hướng tới tương lai
Việt Nam chủ trương “gác lại quá khứ, hướng
tới tương lai”, cùng Hoa Kỳ xây dựng quan hệ hợp tác trên nguyên tắc hợp tác
cùng có lợi, bình đẳng, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của nhau. Đây là chủ trương nhất quán trong đường lối đối ngoại của
Đảng và Nhà nước, phù hợp với tinh thần hòa hiếu và truyền thống yêu chuộng hòa
bình của dân tộc Việt Nam. Với nỗ lực không biết mệt mỏi của hai Nhà nước, đặc
biệt là người dân hai nước, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ đã phát triển mạnh mẽ cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu, trên tất cả các lĩnh vực và cấp độ, thể hiện đúng
tinh thần quan hệ Đối tác toàn diện.
Quan hệ chính trị - ngoại giao từng bước mở
rộng. Trao đổi đoàn cấp cao song phương diễn ra thường xuyên và liên tục. Từ
năm 2000, Lãnh đạo cấp cao hai nước đã thực hiện 10 chuyến thăm lẫn nhau, trong
đó, phía Việt Nam có ba chuyến thăm Hoa Kỳ nổi bật: chuyến thăm năm 2013 của Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang, xác lập quan hệ Đối tác toàn diện; chuyến thăm năm
2015, với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trở thành lãnh đạo Đảng cao nhất lần đầu
thăm chính thức Hoa Kỳ và chuyến thăm năm 2017, với Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Xuân Phúc là nhà lãnh đạo đầu tiên của một nước ASEAN tới Washington sau khi Tổng
thống Donald Trump nhậm chức. Về phía Hoa Kỳ, các Tổng thống đương nhiệm đều đã
ghé thăm Việt Nam, riêng Tổng thống Donald Trump đã thăm Việt Nam hai lần vào
năm 2017 và 2019. Mỗi chuyến thăm của cả lãnh đạo 2 bên đều để lại những dấu mốc
mới, mở ra những giai đoạn mới cho quan hệ 2 nước.
Cụ thể, qua các chuyến thăm, hai bên đã
thông qua 8 Tuyên bố chung. Đặc biệt, Tuyên bố chung năm 2013 đã thiết lập quan
hệ Đối tác toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ với 9 lĩnh vực hợp tác trọng tâm, trong
đó lần đầu tiên xác định nguyên tắc hợp tác cùng có lợi, bình đẳng, tôn trọng
thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Tuyên bố
chung năm 2015 đưa ra tầm nhìn chung cho quan hệ hai nước, nhấn mạnh làm sâu sắc
quan hệ đối tác lâu dài, tăng cường hợp tác trên các vấn đề khu vực và toàn cầu.
Tuyên bố chung năm 2017 đề ra lộ trình đưa quan hệ hai nước đi vào chiều sâu.
Đặc biệt, việc Hoa Kỳ đón tiếp trọng thị Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng năm 2015 đã thể hiện sự “tôn trọng đầy đủ” thể chế
chính trị của Việt Nam và vai trò lãnh đạo toàn diện đất nước của Đảng ta. Chính
quyền, Quốc hội Hoa Kỳ nhiều lần khẳng định coi trọng tăng cường quan hệ Đối
tác toàn diện, ủng hộ phát triển quan hệ với một đát nước Việt Nam “hùng mạnh,
độc lập và thịnh vượng” và đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong chính sách
khu vực của Hoa Kỳ.
Một bộ phận quan trọng, không thể tách rời
của quan hệ bang giao Việt Nam-Hoa Kỳ đang phát triển năng động, ấn tượng nhất
là về kinh tế - thương mại và đầu tư. Từ mức 450 triệu USD trong 1995, kim ngạch
song phương đã tăng 170 lần lên 76 tỷ USD vào năm 2019. Kinh tế Việt Nam và Hoa
Kỳ ngày càng gia tăng tính bổ trợ và tương hỗ lẫn nhau. Hoa Kỳ tiếp tục là thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, với nhiều mặt hàng có thế mạnh như
thủy sản, dệt may, giày dép, nông sản… Ở chiều ngược lại, Việt Nam cũng là một
trong những thị trường xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhất của Hoa Kỳ. Nhu cầu và
thị hiếu của người dân Việt Nam ngày càng ưa thích tiêu dùng các sản phẩm
thương hiệu Mỹ, từ nông sản, viễn thông, hàng không cho đến dịch vụ tài chính,
ngân hàng, giáo dục…
Về đầu tư, Hoa Kỳ là nhà đầu tư nước ngoài
lớn thứ 11 tại Việt Nam với hình thức đầu tư đa dạng, với dự án đăng ký tại
43/63 tỉnh thành. Sau thời gian dài hoạt động hiệu quả, nhiều tập đoàn lớn của
Hoa Kỳ mong muốn mở rộng quy mô đầu tư, giúp Việt Nam từng bước tạo dựng chỗ đứng
trong chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.
Hợp tác khoa học - công nghệ giữa hai nước
cũng tiến triển tích cực, mở rộng sang nhiều lĩnh vực mới. Nhiều doanh nghiệp
công nghệ hàng đầu của Hoa Kỳ mong muốn thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực hai nước
đặc biệt quan tâm như trí tuệ nhân tạo, khởi nghiệp sáng tạo, năng lượng tái tạo,
phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao. Sau khi thiết lập quan hệ, hợp tác giáo dục – đào tạo song phương tăng trưởng
vượt bậc: Năm 1995, số sinh viên Việt Nam tại Hoa Kỳ là 500 người; 25 năm sau,
con số đó là gần 30.000 người, đưa Việt Nam đứng đầu ASEAN về số du học sinh tại
Hoa Kỳ. Không những thế, sinh viên Việt Nam có thể học tập, nghiên cứu tại Đại
học Fulbright Việt Nam.
Du lịch là một điểm sáng khác trong quan hệ
song phương, với lượng khách Hoa Kỳ đến Việt Nam tăng đều đặn hàng năm. Năm
2019, Hiệp hội Du lịch Hoa Kỳ đã bình chọn Việt Nam là một trong 10 điểm đến hấp
dẫn nhất thế giới. Với du khách Hoa Kỳ, Việt Nam đang trở thành điểm đến an
toàn, thân thiện, có khả năng tổ chức sự kiện quốc tế lớn.
Hợp tác Việt Nam-Hoa Kỳ không chỉ giới hạn
trong các vấn đề song phương, mà đang mở rộng sang các vấn đề khu vực và toàn cầu.
Thực tế này phù hợp với chủ trương của Việt Nam về tích cực, chủ động hội nhập
quốc tế, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; phù hợp với lợi
ích và phát triển của quan hệ hai nước. Hai nước phối hợp ngày một chặt chẽ
trên các diễn đàn quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, APEC, ARF, EAS…, cũng
như trong xử lý nhiều vấn đề lớn như chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt,
chống tội phạm xuyên quốc gia, các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc;
phát triển bền vững tiểu vùng Mekong và thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược ASEAN-Hoa
Kỳ.
Hai bên cũng đẩy mạnh hợp tác trong bảo đảm
tự do và an toàn an ninh hàng hải, hàng không ở khu vực, thúc đẩy giải quyết
tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc
tế, trong đó có Công ước về Luật Biển của Liên hợp quốc năm 1982, nhất là trong
năm Việt Nam đảm nhận vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc và Chủ tịch ASEAN 2020, đóng góp thiết thực cho hòa bình, hợp tác và phát
triển ở khu vực và trên thế giới.
Vượt lên khác biệt, viết tiếp tương lai
Cũng như bất kỳ mối bang giao giữa các quốc
gia, quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ không thể không còn những khác biệt. Đây là vấn
đề dễ hiểu khi hai quốc gia có sự đa dạng về văn hóa và lịch sử, sự khác biệt về
chế độ chính trị và trình độ phát triển, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi
mối quan hệ Đối tác toàn diện đang phát triển ngày càng đi vào chiều sâu.
Song trên tất cả, hai nước đã và đang thể
hiện rõ tinh thần tôn trọng thể chế chính trị, nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, nỗ lực tăng cường đối thoại, thúc đẩy hợp tác, giảm thiểu sự
khác biệt có thể ảnh hưởng đến tổng thể quan hệ, đồng thời, duy trì cơ chế đối
thoại thiện chí để xử lý bất đồng trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và xây dựng.
Hiện hai nước đang tích cực trao đổi, rà
soát vướng mắc và thúc đẩy giải quyết các quan tâm của Hoa Kỳ, trong đó có triển
khai hiệu quả Kế hoạch hành động hướng tới cán cân thương mại hài hòa, bền vững,
giảm thâm hụt thương mại. Hai bên cũng tiếp tục đối thoại về quan điểm khác
nhau trong vấn đề dân chủ - nhân quyền - tôn giáo.
Trải qua 25 năm bình thường hóa quan hệ và
7 năm triển khai quan hệ Đối tác toàn diện, những thành quả mà hai nước đạt được
đã chỉ ra rằng: hợp tác trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau, tuân thủ Hiến chương
Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế là lựa chọn đúng đắn
của Việt Nam và Hoa Kỳ. Đây là xu hướng tất yếu và hoàn toàn phù hợp với lợi
ích chung của nhân dân hai nước, thể hiện nỗ lực, quyết tâm và tầm nhìn chiến
lược của lãnh đạo hai nước.
Trong chuyến thăm Hoa Kỳ năm 2015, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng từng nói: “Từ hai nước cựu thù, chúng ta đã trở thành những
người bạn, đối tác, và đối tác toàn diện. Quá khứ không thể thay đổi, nhưng
tương lai thuộc về trách nhiệm của chúng ta”.
Với những gì đã qua và những gì đang tới,
Việt Nam và Hoa Kỳ hoàn toàn có quyền lạc quan vào tương lai. Hy vọng rằng, dấu
ấn trên hành trình dài 25 năm của quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ sẽ là động lực để thế
hệ trẻ hai nước tiếp bước cha ông, đưa quan hệ đối tác phát triển lên tầm cao
phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước, đóng góp thiết thực vào hòa bình, ổn
định, hợp tác và thịnh vượng ở châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới.
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao Phạm Bình Minh