Ngày 18/1/1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là quốc gia đầu
tiên trên thế giới thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam), mở ra trang sử mới cho mối
quan hệ láng giềng hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc.
Ngày 9/10/2020, Đại sứ Phạm Sao Mai hội kiến Thị trưởng thành phố Thượng Hải Cung Chính nhân chuyến thăm làm việc tại Thượng Hải.
Quan hệ toàn diện
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng
gần gũi, núi sông liền một dải. Trải qua 70 năm, tuy có những lúc thăng trầm,
nhưng hữu nghị, hợp tác vẫn là dòng chảy chính của quan hệ Việt - Trung. Sau
khi bình thường hóa quan hệ năm 1991, hợp tác Việt-Trung đã phát triển mạnh mẽ,
khuôn khổ quan hệ hai nước không ngừng được nâng cấp. Tháng 5/2008, hai nước
chính thức thiết lập khuôn khổ quan hệ “Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt
Nam-Trung Quốc”, mở ra thời kỳ mới cho mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp
tác toàn diện giữa hai Đảng, hai nước.
Với nỗ lực chung của các cấp, các ngành và
nhân dân hai nước, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung
Quốc về tổng thể duy trì xu thế phát triển ổn định, tích cực, đạt nhiều thành
quả quan trọng trên các lĩnh vực. Quan hệ chính trị được tăng cường, giao lưu
tiếp xúc cấp cao diễn ra thường xuyên với nhiều hình thức linh hoạt. Hằng năm đều
có các đoàn Lãnh đạo Đảng, Nhà nước hai bên thăm lẫn nhau, đi sâu trao đổi về
những định hướng và biện pháp nhằm phát triển quan hệ song phương, củng cố tin
cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác thực chất trên các lĩnh vực, cũng như xử lý một
số vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước.
Giao lưu, hợp tác kênh Đảng, giữa Quốc hội
Việt Nam với Nhân đại Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Chính hiệp
Trung Quốc và giữa các bộ ngành quan trọng hai bên như Ngoại giao, Quốc phòng,
Công an... ngày càng mở rộng, cơ chế hóa và đi vào chiều sâu. Đến nay, Việt Nam
và Trung Quốc đã thiết lập gần 60 cơ chế giao lưu, hợp tác các cấp, các ngành,
nổi bật là Gặp gỡ cấp cao hai Đảng, Hội thảo lý luận hai Đảng, Ủy ban chỉ đạo hợp
tác song phương, Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm, Giao lưu hữu nghị
quốc phòng biên giới...
Hợp tác giữa các địa phương hai bên ngày
càng được mở rộng, góp phần làm phong phú thêm nội hàm quan hệ hai nước. Kể từ
thập niên 1990 đến nay, đã có khoảng 50 tỉnh/thành phố của Việt Nam ký kết thỏa
thuận thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với các tỉnh/thành phố/khu tự trị của
Trung Quốc. Các địa phương có chung đường biên giới đã thành lập nhiều cơ chế gặp
gỡ, hội nghị định kỳ nhằm tăng cường hữu nghị và hợp tác, cùng nhau xây dựng đường
biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Hợp tác thực chất
Hợp tác kinh tế - thương mại, đầu tư phát
triển mạnh mẽ và là điểm sáng trong tổng thể quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc;
hợp tác trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ phát triển sâu
rộng và ngày càng thực chất.
Về thương mại, Việt Nam bốn năm liền là đối
tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN và từ giữa năm 2020 đã vươn
lên trở thành đối tác thương mại lớn thứ bảy của Trung Quốc trên toàn thế giới;
Trung Quốc liên tục kể từ năm 2004 là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.
Theo thống kê của Việt Nam, tổng kim ngạch thương mại hai chiều Việt - Trung
năm 2019 đạt xấp xỉ 117 tỷ USD, tăng gấp hơn 3.600 lần so với năm 1991; trong
11 tháng đầu năm 2020, kim ngạch xuất nhập khẩu hai bên đạt 117,09 tỷ USD (số
liệu thống kê của Trung Quốc là 170,7 tỷ USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm
2019), trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 43,145 tỷ USD, tăng 16%,
và nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 73,945 tỷ USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm
2019.
Về đầu tư, tính đến cuối tháng 6/2020,
Trung Quốc có gần 3.000 dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với tổng vốn đăng
ký gần 21 tỷ USD, đứng thứ bảy trong số 136 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu
tư tại Việt Nam. Có thể khẳng định, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến
phức tạp, nhu cầu thị trường thế giới suy giảm mạnh, hợp tác kinh tế giữa hai
nước có thể đạt thành quả tích cực như vậy là nhờ vào sự nỗ lực rất lớn của cả
hai bên; cho thấy tiềm năng, nhu cầu hợp tác rất lớn của hai bên, đáp ứng nguyện
vọng và lợi ích chung của đông đảo doanh nghiệp và người dân hai nước.
Hợp tác du lịch, giao lưu nhân dân giữa
hai nước diễn ra sôi động và ngày càng mật thiết. Hai bên không chỉ phối hợp tổ
chức thành công nhiều hoạt động giao lưu hữu nghị phong phú với quy mô lớn; duy
trì thường xuyên các hoạt động giao lưu giữa nhân sỹ các giới như văn hóa, nghệ
thuật, thể thao, tôn giáo...
Năm 2019, hai bên có tổng cộng gần 20 triệu lượt người dân hai nước
qua lại, hằng tuần có hơn 500 chuyến bay; trên 11.000 lưu học sinh Việt Nam
đang học tập tại các trường đại học ở Trung Quốc và khoảng 2.000 lưu học sinh
Trung Quốc đang học tập tại Việt Nam. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, cơ
quan chức năng hai nước đang tích cực trao đổi nhằm sớm nối lại các chuyến bay
phục vụ nhu cầu đi lại của người dân hai nước.
Về vấn đề biên giới lãnh thổ, từ khi bình thường hóa quan hệ đến
nay, với nỗ lực chung của cả hai bên, trên tinh thần hữu nghị, chân thành, tôn
trọng lẫn nhau và phù hợp với luật pháp quốc tế, hai bên đã cơ bản giải quyết
thỏa đáng hai trong ba vấn đề về biên giới lãnh thổ giữa hai nước là phân định biên
giới trên đất liền và Vịnh Bắc Bộ.
Ngày 23/8/2020, tại cửa khẩu Móng Cái - Đông Hưng, hai bên đã tổ chức
trọng thể “Lễ kỷ niệm 20 năm ký Hiệp ước Biên giới trên đất liền và 10 năm triển
khai ba văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc”, khẳng
định mạnh mẽ quyết tâm và nỗ lực của hai bên trong việc xây dựng đường biên hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Hiện nay, hai nước còn có bất đồng và nhận thức khác nhau đối với vấn
đề trên biển. Hai bên đã ký “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc” (năm 2011), thiết lập và duy trì
thường xuyên cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ và ba cơ chế
đàm phán Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, Nhóm công tác về hợp
tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển, Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác
cùng phát triển trên biển; nhất trí cùng nhau kiểm soát tốt và xử lý thỏa đáng
bất đồng, không có các hành động làm phức tạp và mở rộng tranh chấp, tìm kiếm
biện pháp giải quyết hòa bình vấn đề Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế,
nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.
Ôn lại chặng đường 70 năm mà hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước
Việt - Trung đã cùng nhau đi qua, chúng ta càng thêm trân trọng những thành quả
to lớn mà hai bên có được ngày hôm nay. Hai bên cần tăng cường tin cậy chính trị,
thúc đẩy hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, củng cố và làm sâu sắc hơn nữa
tình hữu nghị truyền thống; nỗ lực đưa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện Việt Nam-Trung Quốc không ngừng phát triển ổn định, lành mạnh, bền vững,
mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đóng góp cho sự phát triển
kinh tế xã hội của mỗi nước, cũng như vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển
ở khu vực và trên thế giới.