Ngoại giao góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Việt
Nam và Campuchia chính thức pháp lý hóa 84% biên giới sau lễ ký các văn kiện
hôm 5/10/2019
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng một lần nữa khẳng định mục tiêu chính của đối ngoại Việt Nam là:
(i) Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; (ii) Tranh thủ tối đa các nguồn lực
bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; (iii) Nâng cao vị
thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Cả ba mục tiêu trên đều có phần liên
quan đến công tác biên giới, lãnh thổ. Do đó, giải quyết tốt công tác biên giới,
lãnh thổ cũng chính là góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đối ngoại.
Khi nói đến vấn đề biên giới lãnh thổ tức là
đề cập các vấn đề biên giới đất liền, trên biển, trên không, và với vị trí địa
lý của Việt Nam, chúng ta phải giải quyết tất cả các vấn đề nêu trên. Xử lý vấn
đề biên giới lãnh thổ tương đối phức tạp do liên quan đến các yếu tố lịch sử,
quan hệ quốc tế, pháp lý, kỹ thuật, chịu ảnh hưởng lớn bởi tình hình quốc tế và
có tác động sâu sắc đến tâm tư, tình cảm của các tầng lớp nhân dân, nhất là đối
với nước ta, một nước có đường biên giới trên đất liền dài hơn 5.000 km và có
vùng biển chồng lấn với nhiều nước cũng như chủ quyền đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đang bị tranh chấp và chiếm giữ, quản lý trái phép.
Trong những năm qua, cùng với những thành tựu
đối ngoại chung thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao vị thế quốc gia, dân
tộc, công tác biên giới, lãnh thổ đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Xây dựng, bảo vệ đường biên giới trên đất
liền rõ ràng, ổn định, hòa bình, hữu nghị và phục vụ phát triển
Đối với tuyến biên giới trên đất liền Việt
Nam - Trung Quốc, sau rất nhiều nỗ lực trao đổi, đàm phán trên tinh thần thiện
chí, phù hợp với luật pháp quốc tế, hai nước đã đạt được những thành tựu to lớn
bao gồm việc ký Hiệp ước biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc ngày
30/12/1999, ra Tuyên bố chung về việc hoàn thành phân giới, cắm mốc ngày
31/12/2008, ký ba văn kiện pháp lý về biên giới ngày 18/11/2009. Lần đầu tiên
trong lịch sử, hai nước Việt Nam - Trung Quốc độc lập, có chủ quyền đã hoạch
định rõ ràng đường biên giới trên đất liền giữa hai nước bằng các văn bản pháp
lý quốc tế có giá trị lâu dài, bền vững và phân giới, đánh dấu rõ ràng đường
biên giới bằng một hệ thống mốc giới thống nhất, chính quy, hiện đại. Cùng với
việc ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ năm 2000, ta và Trung Quốc đã giải
quyết xong 2/3 vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước. Từ đó đến nay, Bộ Ngoại
giao đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan và địa phương bảy tỉnh
biên giới phía Bắc cùng phía Trung Quốc tiến hành quản lý biên giới theo ba văn
kiện pháp lý; giữ vững đường biên, cột mốc; thúc đẩy công tác kết nối. Hai bên
đã cùng nhau mở chính thức năm cửa khẩu quốc tế, bảy cửa khẩu song phương, bốn
lối thông quan/đường chuyên dụng vận chuyển hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy các hoạt động giao lưu, hợp tác. Thương mại biên giới giữa hai nước
ngày càng tăng, chiếm tỷ trọng khoảng 25%, tức 1/4 tổng kim ngạch thương mại
hai chiều Việt Nam - Trung Quốc. Công tác phối hợp quản lý biên giới trên đất
liền đã được Lãnh đạo cấp cao hai nước đánh giá là một điểm sáng trong tổng thể
quan hệ song phương Việt Nam - Trung Quốc.

Thứ
trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung thăm cán bộ, chiến sĩ Trạm Biên phòng Cửa
khẩu Quốc tế Tây Trang.
Đối với tuyến biên giới Việt Nam - Lào, sau
khi kháng chiến giành thắng lợi, hai nước đã bắt tay vào trao đổi, giải quyết
vấn đề biên giới, bắt đầu tại hội đàm thường niên giữa hai Bộ Chính trị Trung
ương hai Đảng vào tháng 2/1976 tại Hà Nội. Trên cơ sở đó, hai nước phối hợp
chặt chẽ hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc, ký các văn kiện pháp lý về
quản lý, bảo vệ biên giới, hoàn thành các công việc quan trọng như giải quyết
vấn đề người di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới hai
nước, hoàn thành dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới để đảm bảo
chính quy, hiện đại, trường tồn và thống nhất trên toàn tuyến, phù hợp với điều
kiện thực tế của mỗi nước và đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý và bảo
vệ biên giới trong tình hình mới. Nhờ vậy, công tác quản lý, bảo vệ đường biên
giới trên đất liền Việt Nam - Lào đã thực sự bước vào giai đoạn phát triển mới.
Nhân dân hai bên thường xuyên qua lại giao lưu, hợp tác, trao đổi hàng hóa,
khám chữa bệnh, học tập… thúc đẩy phát triển mối quan hệ hữu nghị truyền thống,
tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam - Lào.
Đối với tuyến biên giới trên đất liền Việt Nam
- Campuchia, từ sau năm 1980, hai nước đã cùng nhau đàm phán, thương lượng, ký
kết các văn kiện pháp lý quan trọng về vấn đề biên giới. Trong những năm qua,
hai nước tiếp tục nỗ lực duy trì trao đổi, đàm phán, phối hợp triển khai phân
giới, cắm mốc, đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó, phải kể đến việc hoàn
thành pháp lý hóa thành quả phân giới cắm mốc đối với khoảng 1.045 km đường
biên giới, tức khoảng 84% khối lượng trên toàn tuyến, ký Hiệp ước bổ sung và
Nghị định thư phân giới cắm mốc năm 2019. Cùng với các hiệp ước, hiệp định đã
ký trong những năm 1983, 1985, 2005, Hiệp ước bổ sung năm 2019 và Nghị định thư
phân giới cắm mốc cùng hệ thống mốc giới khang trang, hiện đại, bền vững trên
thực địa đã góp phần nâng cao chất lượng và hoàn thiện đường biên giới Việt Nam
- Campuchia cả về mặt pháp lý và thực tiễn, tạo thuận lợi cho việc nhận biết
đường biên giới trên thực địa, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý biên
giới trong tình hình mới, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân hai bên biên giới nói riêng và nhân dân hai
nước Việt Nam - Campuchia nói chung, tạo cơ sở vững chắc để hai bên tiếp tục nỗ
lực, hợp tác chặt chẽ nhằm hoàn thành khối lượng công tác phân giới cắm mốc còn
lại.
Như vậy, bằng nỗ lực trao đổi, đàm phán, ký
kết các hiệp định về biên giới, Việt Nam đã xác lập gần hoàn chỉnh đường biên
giới quốc gia trên đất liền với các nước láng giềng, tạo điều kiện thúc đẩy các
hoạt động trao đổi, hợp tác ở khu vực biên giới; nâng cao đời sống kinh tế - xã
hội các tỉnh biên giới; thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị với các quốc gia láng
giềng; phục vụ công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ biển,
đảo đồng thời thúc đẩy hợp tác quốc tế về biển, tạo môi trường thuận lợi phát
triển bền vững kinh tế biển
Thứ
trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung, Tổng Thư ký Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương
Việt Nam - Trung Quốc và Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, Tổng Thư ký Ủy ban
chỉ đạo hợp tác song phương Trung Quốc - Việt Nam La Chiếu Huy tại hội nghị
trực tuyến, ngày 16/7/2020
Đối với các vấn đề trên biển, căn cứ vào các
quy định liên quan của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam đã từng bước tiến hành đàm phán phân định
các vùng biển chồng lấn; kiên quyết, kiên trì đấu tranh, bảo vệ chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích chính đáng, hợp pháp của ta ở
Biển Đông; đồng thời thúc đẩy các hoạt động hợp tác về biển với các quốc gia
láng giềng và các đối tác trong và ngoài khu vực, góp phần duy trì hòa bình, ổn
định ở Biển Đông, cũng là hòa bình, ổn định của đất nước, khu vực và quốc tế.
Từ năm 1982 đến nay, Việt Nam đã đạt được
nhiều thỏa thuận quan trọng với các nước như Campuchia, Malaysia, Indonesia,
Thái Lan, Trung Quốc… liên quan đến phân định biển, khai thác chung dầu khí và
hợp tác nghề cá. Năm 2006, ta đã giải quyết dứt điểm ranh giới phía Nam của
Vùng thông báo bay Hồ Chí Minh (FIR Hồ Chí Minh), hoàn tất toàn bộ quá trình
giải quyết vấn đề vùng thông báo bay của Việt Nam, tạo điều kiện cho việc quản
lý hiệu quả vùng trời quốc gia, đảm bảo an toàn và cung cấp dịch vụ không lưu.
Hiện nay, ta đang tiếp tục duy trì nhiều cơ chế trao đổi với các quốc gia nhằm
tăng cường hợp tác và tìm kiếm giải pháp cho các tranh chấp như Đoàn đàm phán
cấp Chính phủ về biên giới, lãnh thổ Việt Nam - Trung Quốc, ba Nhóm công tác về
vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc, Ủy ban Hỗn hợp về biển và đại dương
Việt Nam - Philippines, đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế với
Indonesia, Đối thoại về các vấn đề trên biển với các đối tác như Mỹ, Anh,
Australia, Ấn Độ.
Trên các diễn đàn đa phương, Việt Nam cũng
ngày càng thể hiện tốt hơn vai trò và vị thế của mình khi chủ động tham gia và
đề xuất nhiều biện pháp kiểm soát tranh chấp, thúc đẩy hợp tác xử lý những mối
quan tâm chung của khu vực như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, tìm
kiếm cứu nạn, trấn áp tội phạm, duy trì an ninh, an toàn hàng hải và hàng
không… cùng các nước thành viên ASEAN khác và Trung Quốc đàm phán, xây dựng Bộ
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), thúc đẩy các cơ chế hợp tác trong khuôn khổ
ASEAN cũng như giữa ASEAN và các đối tác.
Đối với những vụ việc phức tạp xảy ra ở Biển
Đông, đe dọa chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các quyền lợi hợp
pháp, chính đáng của Việt Nam, Bộ Ngoại giao đã chủ động, tích cực phối hợp
chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương liên quan theo dõi sát sao, đấu tranh
kịp thời, quyết liệt, kiên trì, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo và các
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của Việt Nam.
Bối cảnh tình hình khu vực và quốc tế đưa đến
nhiều thách thức mới cho công tác biên giới, lãnh thổ, nhất là việc xử lý vấn
đề Biển Đông, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Bên cạnh đó, chúng ta tiếp tục giải
quyết nốt các vấn đề biên giới, lãnh thổ còn tồn đọng với các quốc gia láng
giềng cũng như thúc đẩy đường biên giới trên đất liền thực sự trở thành đường
biên giới của hòa bình, hợp tác và phát triển. Làm tốt vấn đề này sẽ góp phần
tích cực thúc đẩy và củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống với các quốc gia
láng giềng, nâng cao vị thế của đất nước và tạo dựng môi trường hòa bình, ổn
định để phục vụ phát triển.
Nhìn lại chặng đường đã qua, chúng ta tự hào
với đánh giá về thành tựu đối ngoại, trong đó có vấn đề biên giới, lãnh thổ của
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “Ngành Ngoại giao đóng vai trò
tiên phong trong thời bình, góp phần bảo vệ an ninh, độc lập và chủ quyền đất
nước”. Đồng thời, chúng ta cũng ý thức về những trách nhiệm nặng nề mà vinh dự,
lớn lao mà khó khăn mà Đảng và Nhà nước đã tin cậy giao phó cho ngành Ngoại
giao nói chung và công tác biên giới, lãnh thổ nói riêng./.
Theo baoquocte.vn